El Nino có ảnh hưởng gì tới ngành gạo?
Theo dự báo của nhiều cơ quan khí tượng trong nước và quốc tế, hiện tượng El Nino đang ảnh hưởng tới thời tiết toàn cầu. Khi hiện tượng này xuất hiện, nhiệt độ trung bình các tháng có xu thế cao hơn bình thường; nắng nóng có thể nhiều hơn và gay gắt hơn.
Hiện tượng El Nino sẽ có tác động không nhỏ tới ngành nông nghiệp - trồng trọt tại Việt Nam. (Ảnh: CT)
Đặc biệt, El Nino thường gây thâm hụt lượng mưa ở đa phần diện tích cả nước với mức phổ biến từ 25 đến 50%. Vì thế nguy cơ cao xảy ra khô hạn cục bộ , hoặc diện rộng ở những nơi có nhu cầu dùng nước nhiều cho sản xuất và sinh hoạt.
Các chuyên gia nhận định, hiện tượng El Nino sẽ có tác động không nhỏ tới ngành nông nghiệp - trồng trọt tại Việt Nam.
Trong tuần qua, trả lời tại một cuộc họp báo, ông Nguyễn Như Cường, Cục trưởng Cục Trồng trọt, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn cho biết: El Nino có thể bắt đầu tác động từ khoảng tháng 10/2023. Như vậy, sản xuất lúa gạo năm nay về cơ bản sẽ an toàn. Tuy nhiên, vụ Đông Xuân 2023 – 2024 và năm 2024, sẽ có những tác động của tình hình của El Nino đến sản xuất.
Theo ông Cường, trước đó, vào năm 2015 - 2016, lần đầu ngành nông nghiệp Việt Nam đối mặt với tình trạng El Nino nên đã có sự lúng túng.
Năm 2019 - 2020, tình trạng El Nino được đánh giá mạnh hơn giai đoạn năm 2015 – 2016, nhưng tổng thiệt hại chỉ 60.000 ha, trong đó, không có diện tích nào bị mất trắng (chỉ thiệt hại chỉ 30 – 50%).
Do đó, để đối phó với tình trạng El Nino, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã có phương án đối phó, bằng cách dủ động giảm thiểu những tác động của tình trạng El Nino đến trồng trọt nói chung và ngành lúa gạo nói riêng. Dù vậy vẫn không được chủ quan.
Cũng theo ông Cường, so với các nước trồng lúa khác trên thế giới thì Việt Nam là nước ít chịu tác động của tình trạng El Nino hơn. Nguyên nhân do Việt Nam có các giải pháp nền trong bố trí cơ cấu cây trồng, bố trí thời vụ cho từng vùng, từng vụ phù hợp thì giải pháp về công trình thủy lợi là một trong những lợi thế.
Việt Nam dư bao nhiêu gạo để xuất khẩu?
Trong khi đó, theo báo cáo của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (NN-PTNT), sản lượng lúa gạo của Việt Nam tính tới thời điểm hiện tại vẫn đang tăng nhẹ, khoảng 0,4% so với năm ngoái.
Về đảm bảo an ninh lương thực đến năm 2030, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cho biết với việc giữ diện tích đất trồng lúa là 3,5 triệu ha đến năm 2030, thì diện tích gieo trồng lúa là khoảng 7 triệu ha/năm sẽ cho sản lượng khoảng 43 triệu tấn thóc/năm, tương đương với 27-28 triệu tấn gạo.
Trong khi đó theo tính toán ở mức an toàn rất cao của Bộ NN-PTNT, lượng lúa dùng cho đảm bảo an ninh lương thực của 100 triệu dân và các nhu cầu tiêu thụ nội địa khác (dùng chế biến, thức ăn chăn nuôi, dự trữ trong dân, dự trữ quốc gia, làm giống…) khoảng 29,5 triệu tấn thóc/năm.
Sản lượng lúa gạo của Việt Nam tính tới thời điểm hiện tại vẫn đang tăng nhẹ. (Ảnh ST)
Vì vậy Việt Nam còn khoảng 13,5 triệu tấn thóc (tương đương 7-8 triệu tấn gạo) dùng cho xuất khẩu.
Trong năm 2023, tổng diện tích lúa cả nước năm 2023 khoảng 7,1 triệu ha; năng suất trung bình đạt 60,7 tạ/ha, sản lượng ước đạt trên 43,1 triệu tấn thóc, tăng khoảng trên 452.000 tấn so với năm 2022.
Trong đó, từ nay đến cuối năm nếu không có diễn biến bất thường của thời tiết thì sản lượng lúa sẽ bảo đảm kế hoạch đáp ứng đầy đủ nhu cầu lúa gạo trong nước và đáp ứng yêu cầu xuất khẩu.
Cụ thể, nhu cầu tiêu thụ lúa gạo trong nước khoảng 29,5 triệu tấn thóc, trong đó tiêu thụ của người dân 13,8 triệu tấn thóc (100 triệu người x 90,0 kg gạo/người/năm = 8,97 triệu tấn gạo). Phục vụ chế biến 7,5 triệu tấn thóc.
Phục vụ chăn nuôi 3,4 triệu tấn thóc. Dùng làm giống, giống dự phòng 1 triệu tấn thóc. Dự trữ trong nước 3,8 triệu tấn thóc.
Căn cứ vào nhu cầu sản lượng thóc dành cho bảo đảm an ninh lương thực, và các nhu cầu tiêu khác, lượng gạo xuất khẩu năm 2023 ước trên 7 triệu tấn (tương đương khoảng 14 triệu tấn thóc).
Định Trần